BÁO CÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ – XÃ HỘI THÁNG 7 VÀ 7 THÁNG NĂM 2023

1. Nông, lâm nghiệp và thủy sản

a) Nông nghiệp

 Lúa mùa: Tính đến ngày 15/7, cả nước gieo cấy được 1.194,4 nghìn ha lúa mùa, bằng 105,8% cùng kỳ năm trước, trong đó: Các địa phương phía Bắc gieo cấy 836,1 nghìn ha, bằng 108%; các địa phương phía Nam gieo cấy 358,3 nghìn ha, bằng 101%.

– Lúa hè thu: Đến trung tuần tháng Bảy, cả nước gieo cấy được 1.905,3 nghìn ha lúa hè thu, bằng 99,9% cùng kỳ năm trước. Trong đó, các địa phương phía Bắc đạt 172,9 nghìn ha, bằng 98,7%; các địa phương phía Nam đạt 1.732,4 nghìn ha, tương đương cùng kỳ năm trước, riêng vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.473,2 nghìn ha, bằng 100,5%.

– Lúa thu đông: Tính đến ngày 15/7, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã xuống giống được 263,4 nghìn ha lúa thu đông, bằng 94,3% cùng kỳ năm trước.

– Cây hàng năm: Tính đến trung tuần tháng 7/2023, cả nước gieo trồng được 716,6 nghìn ha ngô, bằng 98,9% so với cùng kỳ năm trước; 67,1 nghìn ha khoai lang, bằng 95,9%; 18,8 nghìn ha đậu tương, bằng 93,7%; 132,2 nghìn ha lạc, bằng 96,3%; 870,8 nghìn ha rau, đậu, bằng 100,7%.

– Chăn nuôi: Chăn nuôi trâu, bò trong tháng ổn định. Chăn nuôi lợn và gia cầm hồi phục. Ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 7/2023 tăng 2,8% so với cùng thời điểm năm 2022; tổng số bò tăng 0,8%; tổng số trâu giảm 1,8%; tổng số gia cầm tăng 2,1%.

b) Lâm nghiệp

Sản xuất lâm nghiệp gặp bất lợi do thời tiết nắng nóng kéo dài ảnh hưởng đến tiến độ trồng rừng mới ở nhiều địa phương. Tính chung 7 tháng năm 2023, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 138,5 nghìn ha, giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 52,1 triệu cây, tăng 4,9%; sản lượng gỗ khai thác đạt 10,5 triệu m3, tăng 2,8%; diện tích rừng bị thiệt hại  là 1.348,8 ha, tăng 92,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị chặt, phá là 715,5 ha, tăng 9,3%; diện tích rừng bị cháy là 633,3 ha, gấp 14 lần.

c) Thủy sản

Sản lượng thủy sản tháng 7/2023 ước đạt 823,1 nghìn tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước đạt 474,7 nghìn tấn, tăng 3,4%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 348,4 nghìn tấn, tăng 1,6%. Tính chung 7 tháng năm 2023, sản lượng thủy sản ước đạt 5.093,6 nghìn tấn, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Cá đạt 3.669,6 nghìn tấn, tăng 1,7%; tôm đạt 673 nghìn tấn, tăng 3,5%; thủy sản khác đạt 751 nghìn tấn, tăng 1,3%.

2. Sản xuất công nghiệp

– Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 7/2023 ước tính tăng 3,9% so với tháng trước và tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng năm 2023, IIP ước tính giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 8,6%). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo giảm 1% (cùng kỳ năm 2022 tăng 9,5%), làm giảm 0,7 điểm phần trăm trong mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 1,4%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,3%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 1,2%, làm giảm 0,2 điểm phần trăm.

– Chỉ số sản xuất công nghiệp 7 tháng năm 2023 so với cùng kỳ năm trước tăng ở 49 địa phương và giảm ở 14 địa phương trên cả nước.

– Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/7/2023 tăng 0,9% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 3,9% so với cùng thời điểm năm trước.

3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[1]

– Trong tháng Bảy, cả nước có 13,7 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, giảm 1,2% so với tháng trước và tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, cả nước còn có hơn 7 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 1% so với tháng trước và giảm 3,5% so với cùng kỳ năm 2022; có 6.884 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 34,9% và tăng 30,3%; có 5.257 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 8,6% và tăng 19%; có 1.581 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 6,7% và giảm 10,5%.

– Tính chung 7 tháng năm 2023, cả nước có 131,9 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, giảm 1,4% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có 18,8 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 113,3 nghìn doanh nghiệp, tăng 19,8% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có 16,2 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

4. Đầu tư

– Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Bảy ước đạt 58,5 nghìn tỷ đồng, tăng 28,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng năm 2023, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt hơn 291 nghìn tỷ đồng, bằng 41,3% kế hoạch năm và tăng 22,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 bằng 39,7% và tăng 12,3%).

– Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/7/2023 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 16,24 tỷ USD, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước.

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 7 tháng năm 2023 ước đạt 11,58 tỷ USD, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước.

– Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 7 tháng năm 2023 có 69 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn là 149,2 triệu USD, giảm 52,5% so với cùng kỳ năm trước; có 17 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn điều chỉnh tăng 171,4 triệu USD, gấp 3,8 lần cùng kỳ năm trước. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt 320,6 triệu USD, giảm 10,6% so với cùng kỳ năm trước.

5. Thu, chi ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách Nhà nước tháng 7/2023 ước đạt 133,9 nghìn tỷ đồng. Lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước 7 tháng năm 2023 ước đạt 1.016,1 nghìn tỷ đồng, bằng 62,7% dự toán năm và giảm 7,8% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng chi ngân sách Nhà nước tháng 7/2023 ước đạt 158,4 nghìn tỷ đồng. Lũy kế 7 tháng năm 2023 ước đạt 957 nghìn tỷ đồng, bằng 46,1% dự toán năm và tăng 13,7% so với cùng kỳ năm trước.

6. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch

a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Bảy ước đạt 512,2 nghìn tỷ đồng, tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 3.529,8 nghìn tỷ đồng, tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 15,7%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 9,6% (cùng kỳ năm 2022 tăng 11,7%).

b) Xuất, nhập khẩu hàng hóa[2]

– Xuất khẩu hàng hóa

+ Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng Bảy ước đạt 29,68 tỷ USD, tăng 0,8% so với tháng trước và giảm 3,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 194,73 tỷ USD, giảm 10,6% so với cùng kỳ năm trước.

+ Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu 7 tháng năm 2023, nhóm hàng công nghiệp chế biến ước đạt 171,5 tỷ USD, chiếm 88,1%.

– Nhập khẩu hàng hóa

+ Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Bảy ước đạt 27,53 tỷ USD, tăng 4,4% so với tháng trước và giảm 9,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 179,5 tỷ USD, giảm 17,1% so với cùng kỳ năm trước.

+ Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu 7 tháng năm 2023, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước đạt 168,3 tỷ USD, chiếm 93,8%.

– Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa 7 tháng năm 2023, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 52,4 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 58,6 tỷ USD.

– Cán cân thương mại hàng hóa tháng Bảy ước tính xuất siêu 2,15 tỷ USD. Tính chung 7 tháng năm 2023, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 15,23 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 1,34 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 12,58 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 27,81 tỷ USD.

c) Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

– Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2023 tăng 0,45% so với tháng trước. So với tháng 12/2022, CPI tháng Bảy tăng 1,13% và so với cùng kỳ năm trước tăng 2,06%. Bình quân 7 tháng năm 2023, CPI tăng 3,12% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 4,65%.

– Chỉ số giá vàng tháng 7/2023 giảm 0,03% so với tháng trước; tăng 3,27% so với tháng 12/2022; tăng 3,39% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 7 tháng năm 2023 tăng 1,06%.

– Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 7/2023 tăng 0,53% so với tháng trước; giảm 1,71% so với tháng 12/2022; tăng 1,04% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 7 tháng năm 2023 tăng 2,39%.

d) Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách tháng 7/2023 ước đạt 398,5 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 1,3% so với tháng trước và luân chuyển 21,1 tỷ lượt khách.km, tăng 2,9%. Tính chung 7 tháng năm 2023, vận tải hành khách ước đạt 2.615,1 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển đạt 140,3 tỷ lượt khách.km, tăng 27,6%.

Vận tải hàng hóa tháng 7/2023 ước đạt 191,2 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 0,7% so với tháng trước và luân chuyển 39,7 tỷ tấn.km, tăng 4,8%. Tính chung 7 tháng năm 2023, vận tải hàng hóa ước đạt 1.303,6 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 15,3% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 270,7 tỷ tấn.km, tăng 12,7%.

đ) Khách quốc tế đến Việt Nam

Khách quốc tế đến Việt Nam tháng 7/2023 ước đạt hơn 1 triệu lượt người, tăng 6,5% so với tháng trước và gấp 2,9 lần cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng năm 2023, khách quốc tế đến nước ta ước đạt hơn 6,6 triệu lượt người, gấp 6,9 lần cùng kỳ năm trước nhưng vẫn chỉ bằng 67,5% so với cùng kỳ năm 2019 – năm chưa xảy ra dịch Covid-19.

7. Một số tình hình xã hội

– Theo khảo sát tình hình đời sống của hộ dân cư tháng Bảy ổn định so với tháng trước. Công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được các cấp, ngành quan tâm thực hiện. Theo báo cáo từ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, trong 7 tháng năm 2023, Chính phủ đã hỗ trợ hơn 18,2 nghìn tấn gạo cho 204,7 nghìn hộ với hơn 1,2 triệu nhân khẩu, trong đó: Hỗ trợ gạo cho người dân dịp Tết Nguyên đán là 16,9 nghìn tấn gạo; hỗ trợ cho người dân kỳ giáp hạt năm 2023 hơn 1,3 nghìn tấn gạo. Trong tháng 7/2023, nhiều hoạt động tri ân tưởng nhớ các anh hùng liệt sỹ diễn ra trong cả nước nhân dịp kỷ niệm 76 năm ngày Thương binh – Liệt sĩ. Ngày 19/6/2023, Chủ tịch nước đã ban hành Quyết định 715/QĐ-CTN về việc tặng quà nhân dịp kỷ niệm 76 năm ngày Thương binh – Liệt sĩ (27/7/1947 – 27/7/2023) với tổng kinh phí hơn 427,1 tỷ đồng tặng cho 1.393,9 nghìn người có công với cách mạng.

– Trong tháng Bảy (từ 15/6-14/7/2023), trên địa bàn cả nước xảy ra 958 vụ tai nạn giao thông. Tính chung 7 tháng năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 5.928 vụ tai nạn giao thông. Bình quân 1 ngày trong 7 tháng năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 28 vụ tai nạn giao thông, gồm 20 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 8 vụ va chạm giao thông, làm 16 người chết, 11 người bị thương và 8 người bị thương nhẹ.

– Thiệt hại do thiên tai trong tháng Bảy chủ yếu do ảnh hưởng của mưa lớn, ngập lụt, sạt lở đất. Tính chung 7 tháng năm nay, thiên tai làm 51 người chết, 52 người bị thương; hơn 12 nghìn ngôi nhà bị sập đổ và hư hỏng; 11,9 nghìn con gia súc, gia cầm bị chết; 31,9 nghìn ha lúa và 14,3 nghìn hoa màu bị hư hỏng; tổng giá trị thiệt hại về tài sản ước tính 881,1 tỷ đồng, giảm 84,3% so với cùng kỳ năm 2022.

– Trong tháng 7/2023, theo báo cáo từ Sở Tài nguyên và Môi trường, Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được các Cục Thống kê tổng hợp, các cơ quan chức năng đã phát hiện 1.071 vụ vi phạm môi trường. Tính chung 7 tháng năm nay đã phát hiện 11.070 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 9.807 vụ với tổng số tiền phạt là 176,8 tỷ đồng, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm trước.

– Trong 7 tháng năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 1.066 vụ cháy, nổ, làm 60 người chết và 60 người bị thương, thiệt hại ước tính gần 108,8 tỷ đồng, giảm 77,9% so với cùng kỳ năm trước./.

[1] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngày 25/7/2023.

[2] Ước tính tổng trị giá xuất khẩu, nhập khẩu tháng 7/2023 do Tổng cục Hải quan cung cấp ngày 27/7/2023. Tổng cục Thống kê ước tính trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu tháng 7/2023 dựa trên số liệu sơ bộ về trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu đến hết ngày 25/7/2023 do Tổng cục Hải quan cung cấp.

Nguồn: TCTK

Kinh tế-Xã hộitiêu điểm
Comments (0)
Add Comment