Béo phì ở trẻ em là một thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng. Trên toàn cầu, hơn 42 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị thừa cân hoặc béo phì và con số này được dự báo sẽ tăng lên khoảng 70 triệu vào năm 2025 theo xu hướng hiện tại. Trẻ em bị thừa cân hoặc béo phì thường bị suy giảm sức khỏe thể chất và tâm lý. Trong ngắn hạn, những tác động này có thể liên quan đến lòng tự trọng kém và hình ảnh cơ thể tiêu cực, cả hai đều có thể dẫn đến giảm sự tự tin và tăng nguy cơ bị bắt nạt ở trường. Trẻ em bị thừa cân hoặc béo phì cũng có nguy cơ mắc các bệnh không lây nhiễm khác nhau và béo phì khi trưởng thành.
Mặc dù rất cần thiết, nhưng có những dấu hiệu cho thấy các biện pháp can thiệp nhằm kiềm chế đại dịch COVID-19 đang làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng thừa cân và béo phì ở trẻ em trên toàn cầu. Việc sử dụng hạn chế các không gian công cộng và khu vui chơi có nghĩa là trẻ em có ít cơ hội tham gia vào các hoạt động thể chất hơn so với trước đại dịch. Việc đóng cửa các trường học đã làm tình hình thêm phức tạp; các nghiên cứu đã chỉ ra rằng trẻ em có nhiều khả năng tăng cân quá mức trong thời gian nghỉ học hơn là trong thời gian đi học. Sự tăng cân này có thể là do mất đi các trường ảnh hưởng tích cực có xu hướng đối với các yếu tố nguy cơ chính, chẳng hạn như giờ ăn đã xác định, hoạt động thể chất và lịch ngủ. So với trước đại dịch, trẻ em hiện phụ thuộc nhiều hơn vào các thành viên trong gia đình để đưa ra các quyết định về chế độ ăn uống, điều này có thể không phải lúc nào cũng có tác động tích cực đến các yếu tố nguy cơ này và có thể dẫn đến tăng cân không lành mạnh. Cân nặng vượt quá mức tăng của trẻ em trong đại dịch này có thể khó đảo ngược và có thể góp phần gây ra thừa cân và béo phì ở tuổi trưởng thành.
Chính phủ Vương quốc Anh gần đây đã công bố kế hoạch khởi động lại Chương trình Đo lường Trẻ em Quốc gia (NCMP) vào tháng 9 năm 2021 và tăng tần suất cân từ hai lần tổng thể lên một lần mỗi năm trong giáo dục tiểu học nhằm nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng béo phì. Mặc dù chiến lược này sẽ cung cấp dữ liệu toàn diện về các xu hướng, nhưng có những lo ngại rằng việc cân đo trẻ em ở trường mỗi năm một lần có thể dẫn đến sự tập trung quá mức vào ngoại hình của trẻ em. Việc nhấn mạnh như vậy có thể làm gia tăng tình trạng bắt nạt và kỳ thị hiện có, đồng thời làm xấu đi sức khỏe tâm thần của trẻ em bị thừa cân và béo phì. Trên thực tế, việc cung cấp những thông tin như vậy mà không có sự hỗ trợ thích hợp sẽ không đủ để tạo động lực cho phụ huynh, thậm chí có thể phản tác dụng. Những nỗ lực để giải quyết tình trạng này cần phải vượt ra ngoài định lượng và đặc tính của nó.
Xuất phát điểm, điều cần thiết là phải thừa nhận bản chất phức tạp của tình trạng thừa cân và béo phì ở trẻ em. Dữ liệu NCMP tổng hợp từ năm 2016 và 2017 cho thấy hơn một phần tư trẻ em mắc bệnh béo phì ở Anh đang sống trong hộ gia đình có ít nhất một người cha hoặc mẹ bị béo phì và khoảng một nửa số cha mẹ có con bị béo phì và hơn 85% cha mẹ có con bị thừa cân nghĩ rằng con họ có cân nặng hợp lý.
Cần có cách tiếp cận của chính phủ để chuyển từ cách tiếp cận tập trung vào trách nhiệm cá nhân và hành động của cá nhân sang cách tiếp cận đồng cảm hơn, trong đó thừa nhận ảnh hưởng của các yếu tố môi trường, văn hóa và kinh tế xã hội góp phần gây ra tình trạng thừa cân và béo phì ở trẻ em, đặc biệt là khi trẻ em còn nhỏ hoặc không kiểm soát được các yếu tố này. Một cách tiếp cận toàn xã hội đã được ủng hộ, theo đó các cá nhân (tức là phụ huynh), doanh nghiệp, trường học, chính quyền địa phương, các tổ chức y tế và chính phủ quốc gia cùng hợp tác và có những hành động quyết định nhanh chóng để giải quyết tình hình. Chiến lược này đòi hỏi sự cam kết bền vững của tất cả các bên liên quan và nguồn lực đáng kể để có thể thành công.
Điều quan trọng nữa là các chính sách và hướng dẫn thực hiện của chính phủ phải rõ ràng, dễ hành động và được cung cấp thông tin bằng bằng chứng chất lượng cao để đảm bảo chúng có hiệu quả. Tuy nhiên, một đánh giá của Cochrane năm 2017 về các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng về phương pháp điều trị thừa cân và béo phì ở trẻ em đã tuyên bố một cách đáng lo ngại rằng chất lượng chung của bằng chứng thấp hoặc rất thấp.
Tổng quan cũng báo cáo sự không đồng nhất đáng kể giữa các thử nghiệm này và sự khác biệt rõ rệt trong thời gian theo dõi giữa các nghiên cứu.
Với những thách thức liên quan đến việc duy trì giảm cân, các nghiên cứu trong tương lai cần có thời gian theo dõi lâu hơn so với các thử nghiệm trước đó để xác định những can thiệp nào mang lại kết quả lâu dài tốt nhất. Thừa cân hoặc béo phì ảnh hưởng đến tâm lý cũng như thể chất của trẻ. Do đó, các biện pháp can thiệp trong tương lai nên xem xét sử dụng các thước đo kết quả do bệnh nhân báo cáo để đánh giá tác động của chúng lên các khía cạnh như chất lượng cuộc sống, lo lắng và tự tin, ngoài các thông số lâm sàng, chẳng hạn như điểm Z của chỉ số khối cơ thể. Các nhà nghiên cứu cũng cần phải nhận thức và phản ứng với những thay đổi trong bối cảnh nghiên cứu về các hành vi và môi trường gây phản ứng do đại dịch COVID-19 gây ra. Các nhà hoạch định chính sách nên nhạy cảm với những thay đổi này khi xem xét các bằng chứng được tạo ra trước đại dịch.
Một báo cáo được công bố vào năm 2020 ước tính rằng Dịch vụ Y tế Quốc gia ở Anh sẽ tiết kiệm được khoảng 37 tỷ bảng Anh và xét trên cả Vương quốc Anh rộng lớn là 202 tỷ bảng Anh, thông qua cải thiện năng suất, giảm tỷ lệ nhập viện và tăng lực lượng lao động tham gia nếu chính phủ đạt được mục tiêu giảm một nửa thời thơ ấu béo phì vào năm 2030 trong nhóm hiện tại.
Giải quyết tình trạng thừa cân và béo phì ở trẻ em sau đại dịch sẽ không dễ dàng và có thể cần nhiều thập kỷ để đảo ngược hoàn toàn xu hướng hiện tại. Cần có những hành động hợp tác bền vững và cam kết thực sự để giải quyết tình trạng thừa cân và béo phì ở trẻ em và các vấn đề cơ bản phức tạp.
Ngọc Bích (lược dịch)
Nguồn: https://www.thelancet.com/journals/lanchi/article/PIIS2352-4642(21)00204-2/fulltext