1. Dân số thế giới có khả năng đạt đỉnh vào thế kỷ này
Dân số thế giới dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong 50 hoặc 60 năm nữa, đạt đỉnh khoảng 10,3 tỷ người vào giữa những năm 2080, tăng từ 8,2 tỷ người vào năm 2024. Sau khi đạt đỉnh, dân số thế giới dự kiến sẽ bắt đầu giảm và dần dần giảm xuống còn 10,2 tỷ người vào cuối thế kỷ.
2. Cứ bốn người trên thế giới thì có một người sống ở quốc gia có dân số đã đạt đến đỉnh
Tại 63 quốc gia và khu vực, chiếm 28% dân số thế giới vào năm 2024, quy mô dân số đạt đỉnh trước năm 2024. Tại 48 quốc gia và khu vực, chiếm 10% dân số thế giới vào năm 2024, quy mô dân số dự kiến sẽ đạt đỉnh trong khoảng từ năm 2025 đến năm 2054. Tại 126 quốc gia và khu vực còn lại, dân số có khả năng sẽ tiếp tục tăng đến năm 2054, có khả năng đạt đỉnh vào cuối thế kỷ hoặc sau năm 2100.
3. Phụ nữ ngày nay sinh ít hơn trung bình một con so với năm 1990
Hiện nay, tỷ lệ sinh toàn cầu là 2,3 ca sinh sống trên một phụ nữ, giảm so với mức 3,3 ca sinh vào năm 1990. Hơn một nửa số quốc gia và khu vực trên toàn cầu có tỷ lệ sinh dưới 2,1 ca sinh trên một phụ nữ, mức cần thiết để dân số duy trì quy mô không đổi trong thời gian dài mà không cần di cư.
4. Sinh con sớm tác động có hại đến các bà mẹ trẻ và con của họ
Vào năm 2024, 4,7 triệu trẻ sơ sinh, hay khoảng 3,5% tổng số trẻ sơ sinh trên toàn thế giới, được sinh ra từ những bà mẹ dưới 18 tuổi và khoảng 340.000 trẻ em gái dưới 15 tuổi – với những hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe và hạnh phúc của cả những bà mẹ trẻ và con cái của họ. Đầu tư vào giáo dục cho thanh thiếu niên, đặc biệt là trẻ em gái, và tăng độ tuổi khi kết hôn và sinh con đầu lòng ở những quốc gia mà những sự kiện quan trọng này có xu hướng diễn ra sớm sẽ có tác động tích cực đến sức khỏe, trình độ học vấn và sự tham gia lực lượng lao động của phụ nữ.
5. Sau đại dịch COVID-19, tuổi thọ trung bình toàn cầu đang tăng trở lại
Trên toàn cầu, tuổi thọ trung bình khi sinh đạt 73,3 năm vào năm 2024, tăng 8,4 năm so với năm 1995. Tỷ lệ tử vong tiếp tục giảm dự kiến sẽ mang lại tuổi thọ trung bình khoảng 77,4 năm trên toàn cầu vào năm 2054. Kể từ năm 2022, tuổi thọ trung bình đã trở lại mức trước COVID-19 ở hầu hết các quốc gia và khu vực.
6. Động lực chính thúc đẩy sự gia tăng dân số toàn cầu đến giữa thế kỷ này sẽ là động lực tạo ra bởi sự tăng trưởng trong quá khứ
Số lượng phụ nữ trong độ tuổi 15-49 dự kiến sẽ tăng từ gần 2 tỷ vào năm 2024 lên mức đỉnh điểm khoảng 2,2 tỷ vào cuối những năm 2050, thúc đẩy tăng trưởng liên tục ngay cả khi số ca sinh trên mỗi phụ nữ giảm xuống mức thay thế. Cơ cấu độ tuổi trẻ hiện nay, là sản phẩm của sự tăng trưởng trong quá khứ, sẽ chiếm 79 phần trăm mức tăng dân số đến năm 2054, tăng thêm khoảng 1,4 tỷ người.
7. Các quốc gia có dân số trẻ và tỷ lệ sinh giảm có ít thời gian để hưởng lợi về mặt kinh tế từ sự gia tăng dân số trong độ tuổi lao động
Ở khoảng 100 quốc gia hoặc khu vực, dân số trong độ tuổi lao động (từ 20 đến 64 tuổi) sẽ tăng đến năm 2054, tạo ra một cơ hội được gọi là lợi tức nhân khẩu học. Để tận dụng cơ hội này, các quốc gia phải đầu tư vào giáo dục, y tế và cơ sở hạ tầng, đồng thời thực hiện cải cách để tạo việc làm và cải thiện hiệu quả của chính phủ.
8. Đến năm 2080, số người từ 65 tuổi trở lên sẽ nhiều hơn số trẻ em dưới 18 tuổi
Đến cuối những năm 2070, dân số toàn cầu từ 65 tuổi trở lên dự kiến sẽ đạt 2,2 tỷ người, vượt quá số trẻ em dưới 18 tuổi. Đến giữa những năm 2030, những người từ 80 tuổi trở lên sẽ đông hơn trẻ sơ sinh (1 tuổi trở xuống), đạt 265 triệu người. Các quốc gia đang ở giai đoạn tiên tiến hơn trong quá trình già hóa dân số nên cân nhắc sử dụng công nghệ để cải thiện năng suất ở mọi lứa tuổi. Họ cũng nên thiết kế nhiều cơ hội hơn cho việc học tập và đào tạo lại suốt đời, hỗ trợ lực lượng lao động đa thế hệ và tạo cơ hội kéo dài tuổi thọ làm việc cho những người có thể và muốn tiếp tục làm việc.
9. Đối với một số nhóm dân số, nhập cư sẽ là động lực chính cho tăng trưởng trong tương lai
Tại 50 quốc gia và khu vực, nhập cư được dự báo sẽ làm giảm sự suy giảm quy mô dân số do mức sinh thấp kéo dài và cơ cấu tuổi già. Tuy nhiên, tại 14 quốc gia và khu vực đã trải qua mức sinh cực thấp, di cư có khả năng góp phần làm giảm quy mô dân số đến năm 2054.
10. Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ giúp ngăn chặn tình trạng gia tăng hoặc suy giảm dân số nhanh chóng
Phân biệt đối xử và rào cản pháp lý hạn chế khả năng tiếp cận các dịch vụ sức khỏe tình dục và sinh sản của phụ nữ và thanh thiếu niên. Nâng độ tuổi kết hôn hợp pháp và lồng ghép kế hoạch hóa gia đình vào chăm sóc sức khỏe ban đầu có thể nâng cao trình độ học vấn, sự tham gia kinh tế của phụ nữ và giảm tình trạng sinh con. Ở những quốc gia mà dân số đã đạt đỉnh hoặc có khả năng đạt đỉnh trong ba thập kỷ tới, các chính sách cung cấp chế độ nghỉ phép có lương cho cha mẹ và chế độ làm việc linh hoạt, hỗ trợ dịch vụ chăm sóc trẻ em chất lượng cao, giá cả phải chăng, cung cấp dịch vụ chăm sóc toàn diện cho dân số đang già đi; và khuyến khích phân bổ bình đẳng trách nhiệm chăm sóc và gia đình giữa nam và nữ có thể cải thiện sự tham gia lao động của phụ nữ, hỗ trợ gia đình, khuyến khích sinh con và tăng cường an ninh kinh tế cho nam giới và phụ nữ ở độ tuổi lớn hơn.
Bản sửa đổi năm 2024 của Triển vọng dân số thế giới là ấn bản thứ 28 của các ước tính và dự báo dân số chính thức Ấn bản này trình bày các ước tính dân số từ năm 1950 đến nay cho 237 quốc gia hoặc khu vực, được hỗ trợ bởi các phân tích về xu hướng nhân khẩu học lịch sử. Đánh giá mới nhất này xem xét kết quả của 1.910 cuộc điều tra dân số quốc gia được tiến hành từ năm 1950 đến năm 2023, cũng như thông tin từ các hệ thống đăng ký quan trọng và từ 3.189 cuộc khảo sát mẫu đại diện cho toàn quốc. Bản sửa đổi năm 2024 cũng trình bày các dự báo dân số đến năm 2100 phản ánh một loạt các kết quả hợp lý ở cấp độ toàn cầu, khu vực và quốc gia.
Ngoài những báo cáo, phân tích, biểu đồ, nguồn dữ liệu… thì còn có dữ liệu đầy đủ bằng excel, scv và các phương pháp ước và dự báo chi tiết tại https://population.un.org/wpp/