BỐI CẢNH KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC
Kinh tế – xã hội nước ta 3 tháng đầu năm 2022 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn duy trì đà hồi phục, các hoạt động sản xuất được đẩy mạnh, chuỗi cung ứng toàn cầu bắt đầu được khơi thông. Tuy nhiên, xung đột giữa Nga và U-crai-na đã tạo ra một cuộc khủng hoảng nhân đạo lớn ảnh hưởng đến hàng triệu người và là một cú sốc ảnh hưởng nặng nề đến tăng trưởng toàn cầu. Giá các loại hàng hóa trên thị trường thế giới tăng cao, đặc biệt là giá dầu thô, khí đốt tự nhiên và khí tự nhiên hóa lỏng tăng mạnh nhất kể từ năm 2011, tạo áp lực lớn đến lạm phát toàn cầu. Dự báo gần đây về tăng trưởng toàn cầu năm 2022 của các tổ chức quốc tế đều giảm so với các dự báo đưa ra trước đó[1].
Trong nước, với quyết tâm phục hồi và phát triển kinh tế để không lỡ nhịp với đà phục hồi của kinh tế thế giới, đồng thời đạt được mục tiêu của Nghị quyết Đại hội XIII, ngày 30/01/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình. Các Bộ, ngành, địa phương đã tập trung xây dựng kế hoạch hành động để thực hiện đồng bộ các giải pháp. Cùng với đó, sự ủng hộ của nhân dân cả nước và niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội của Chính phủ đã phát huy tác động, hiệu quả, tạo động lực khôi phục và phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Kinh tế-xã hội nước ta ba tháng đầu năm 2022 đã đạt được nhiều kết quả tích cực, hầu hết các ngành, lĩnh vực có xu hướng phục hồi và tăng trưởng trở lại.
Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong quý I năm 2022 như sau:
I. TÌNH HÌNH KINH TẾ
1. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I năm 2022 ước tính tăng 5,03% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng 4,72% của quý I năm 2021 và 3,66% của quý I năm 2020 nhưng vẫn thấp hơn tốc độ tăng 6,85% của quý I năm 2019. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,45%, đóng góp 5,76% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,38%, đóng góp 51,08%; khu vực dịch vụ tăng 4,58%, đóng góp 43,16%.
Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò động lực dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng 7,79% so với cùng kỳ năm trước. Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường như sau: Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 9,75%; ngành vận tải, kho bãi tăng 7,06%; ngành bán buôn và bán lẻ tăng 2,98%; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 1,79%.
Về cơ cấu nền kinh tế quý I năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 10,94%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,97%; khu vực dịch vụ chiếm 41,70%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,39% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2021 là 11,61%; 36,61%; 42,38%; 9,40%).
Về sử dụng GDP quý I năm 2022, tiêu dùng cuối cùng tăng 4,28% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy tài sản tăng 3,22%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 5,08%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 4,20%.
2. Sản xuất nông nghiệp quý I năm 2022 tuy diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi cho lúa đông xuân sinh trưởng và phát triển nhưng do diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất và tiêu thụ nông sản. Chăn nuôi đang trong đà hồi phục nhưng gặp khó khăn do giá thức ăn chăn nuôi tăng cao. Sản xuất lâm nghiệp phát triển, chế biến và xuất khẩu gỗ những tháng đầu năm 2022 có nhiều tín hiệu tích cực. Hoạt động nuôi trồng, chế biến thủy sản khôi phục mạnh mẽ, giá cá tra tăng cao về mức kỷ lục năm 2018 sau hơn hai năm liên tiếp ở mức thấp, giá tôm cũng có xu hướng tăng. Sản lượng khai thác thủy sản giảm do giá xăng dầu tăng cao, nhiều tàu cá nằm bờ.
a) Nông nghiệp
Tính đến trung tuần tháng Ba, cả nước gieo trồng được 2.959,7 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 99,5% cùng kỳ năm trước, trong đó: Các địa phương phía Bắc đạt 1.048,8 nghìn ha, bằng 99,1%; các địa phương phía Nam đạt 1.910,9 nghìn ha, bằng 99,6%, riêng vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.507 nghìn ha, bằng 99,2%. Đến nay, vùng đồng bằng sông Cửu Long đã cho thu hoạch 785 nghìn ha, chiếm 52,1% diện tích gieo cấy và bằng 114,8% cùng kỳ năm trước, năng suất ước tính đạt 71,8 tạ/ha, giảm 0,5 tạ/ha so với năm trước; sản lượng ước tính đạt 10,8 triệu tấn, giảm 165,2 nghìn tấn.
Đến trung tuần tháng Ba, vùng đồng bằng sông Cửu Long đã hoàn tất công tác thu hoạch lúa vụ mùa 2021-2022. Diện tích gieo trồng lúa mùa của toàn vùng đạt 171,2 nghìn ha, bằng 113,6% vụ mùa năm trước; năng suất lúa mùa toàn vùng đạt khá ở mức 51,6 tạ/ha, tăng 7,4 tạ/ha so với năng suất vụ mùa năm trước, sản lượng đạt 881,1 nghìn tấn, tăng 215,8 nghìn tấn.
Tính đến giữa tháng Ba, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 336,1 nghìn ha ngô, bằng 99,8% cùng kỳ năm trước; 52,7 nghìn ha khoai lang, bằng 91,6%; 11 nghìn ha đậu tương, bằng 88,3%; 109,2 nghìn ha lạc, bằng 96,6%; 583,7 nghìn ha rau đậu, bằng 101,9%.
Trong quý I năm 2022, sản lượng thu hoạch một số cây công nghiệp lâu năm như sau: Chè búp đạt 171,3 nghìn tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước; hồ tiêu đạt 166,1 nghìn tấn, tăng 3,8%; cao su đạt 127 nghìn tấn, tăng 2,4%; điều đạt 210,7 nghìn tấn, giảm 16,6%. Hầu hết sản lượng cây ăn quả tăng so với cùng kỳ năm trước: Chuối đạt 654,3 nghìn tấn, tăng 3,3%; cam đạt 263 nghìn tấn, tăng 2,1%; dứa đạt 211,2 nghìn tấn, tăng 3,4%; xoài đạt 180,9 nghìn tấn, tăng 2,4%; bưởi đạt 158,2 nghìn tấn, tăng 3,2%; riêng sản lượng thanh long đạt 349,7 nghìn tấn, giảm 3,2% do gặp khó khăn trong xuất khẩu.
Chăn nuôi trâu, bò trong quý bị ảnh hưởng bởi rét đậm, rét hại xảy ra trong tháng Hai. Chăn nuôi lợn và gia cầm đang hồi phục do các doanh nghiệp, trang trại, hộ chăn nuôi chủ động được nguồn giống, liên kết tiêu thụ sản phẩm đầu ra, đảm bảo vệ sinh, an toàn sinh học.
Sản lượng một số sản phẩm chăn nuôi chủ yếu
Thực hiện | Ước tính | Quý I năm 2022 | ||
quý I | quý I | so với cùng kỳ | ||
năm 2021 | năm 2022 | năm trước (%) | ||
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng (Nghìn tấn) | ||||
Thịt trâu | 33,5 | 33,9 | 101,1 | |
Thịt bò | 124,7 | 128,9 | 103,4 | |
Thịt lợn | 998,5 | 1.041,1 | 104,3 | |
Thịt gia cầm | 481,7 | 507,3 | 105,3 | |
Sản lượng sản phẩm chăn nuôi khác | ||||
Trứng (Triệu quả) | 4.403,8 | 4.601,6 | 104,5 | |
Sữa (Nghìn tấn) | 275,5 | 304,4 | 110,5 | |
b) Lâm nghiệp
Ước tính quý I năm 2022, diện tích rừng trồng mới tập trung của cả nước đạt 35,4 nghìn ha, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 27 triệu cây, tăng 8,2%; sản lượng gỗ khai thác đạt hơn 3,1 triệu m3, tăng 3,6%; sản lượng củi khai thác đạt 4,7 triệu ste, tăng 0,9%. Diện tích rừng bị thiệt hại là 216,5 ha, giảm 40,4% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Diện tích rừng bị cháy là 7,8 ha, giảm 93,2% (quý I năm 2021, diện tích rừng bị cháy là 115,1 ha); diện tích rừng bị chặt phá là 208,7 ha, giảm 15,9%.
c) Thủy sản
Sản lượng thủy sản tháng Ba ước tính đạt 694,2 nghìn tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Cá đạt 517,4 nghìn tấn, tăng 1,9%; tôm đạt 68,2 nghìn tấn, tăng 9,1%; thủy sản khác đạt 108,6 nghìn tấn, giảm 1,6%. Tính chung quý I năm 2022, sản lượng thủy sản ước tính đạt 1.863,6 nghìn tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Cá đạt 1.385,2 nghìn tấn, tăng 1,7%; tôm đạt 180,5 nghìn tấn, tăng 5,7%; thủy sản khác đạt 297,9 nghìn tấn, tăng 1,2%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng quý I năm 2022 ước tính đạt 988 nghìn tấn, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Cá đạt 716,5 nghìn tấn, tăng 4,6%; tôm đạt 148,1 nghìn tấn, tăng 7,1%.
Giá cá tra tăng cao do nguồn cung cá tra trong nước và toàn cầu thấp. Giá cá tra nguyên liệu tại vùng đồng bằng sông Cửu Long tăng mạnh mẽ sau hơn hai năm liên tiếp ở mức thấp[2], giá tôm có xu hướng tăng[3]. Tính chung quý I năm 2022, sản lượng cá tra đạt 342,6 nghìn tấn, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng tôm sú đạt 47 nghìn tấn, giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt 89,1 nghìn tấn, tăng 12,9%.
Sản lượng thủy sản khai thác quý I năm 2022 ước tính đạt 875,6 nghìn tấn, giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước (sản lượng thủy sản khai thác biển ước đạt 835,3 nghìn tấn, giảm 1,3%), trong đó: Cá đạt 668,7 nghìn tấn, giảm 1,1%; tôm đạt 32,4 nghìn tấn, giảm 0,3%.
3. Sản xuất công nghiệp trong quý I năm 2022 tiếp tục khởi sắc với giá trị tăng thêm toàn ngành tăng 7,07% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,79%; sản xuất và phân phối điện tăng trưởng ổn định; ngành khai khoáng tăng trưởng dương chủ yếu do khai thác than và quặng kim loại tăng.
Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý I năm 2022 ước tính tăng 7,07% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,79%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 7,42%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,54%; ngành khai khoáng tăng 1,23% do sản lượng khai thác than tăng 3,2%; khai thác quặng kim loại tăng 5%.
Tính chung quý I năm 2022, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,6% so với cùng kỳ năm 2021 (cùng kỳ năm 2021 tăng 5,8%). Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/3/2022 tăng 4,8% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 17,7% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 22,5%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân quý I năm 2022 là 79,9% (bình quân quý I năm 2021 là 75,1%).
4. Tình hình đăng ký doanh nghiệp quý I năm 2022 có nhiều khởi sắc, số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động tăng 36,7% so với cùng kỳ năm trước; tổng vốn đăng ký vào nền kinh tế tăng 21%, trong đó vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp đang hoạt động tăng 34,5%. Bên cạnh đó, kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy doanh nghiệp lạc quan về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý II năm 2022 với 82,3% doanh nghiệp đánh giá sẽ ổn định và tốt hơn so với quý I năm 2022. Đây là kết quả quyết tâm phục hồi và phát triển kinh tế thời gian qua của Quốc hội và Chính phủ, tạo niềm tin, động lực cho cộng đồng doanh nghiệp phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh.
a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp[4]
Trong tháng Ba, cả nước có 14,3 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 193,6 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký 93,8 nghìn lao động, tăng 96,3% về số doanh nghiệp, tăng 127,3% về vốn đăng ký và tăng 29,2% về số lao động so với tháng 02/2022. So với cùng kỳ năm trước, tăng 28% về số doanh nghiệp, tăng 71,3% về số vốn đăng ký và tăng 28,8% về số lao động.
Tính chung 3 tháng đầu năm 2022, cả nước có gần 34,6 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 471,2 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký gần 243,5 nghìn lao động, tăng 18,1% về số doanh nghiệp, tăng 5,2% về vốn đăng ký và giảm 0,9% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 3 tháng đầu năm 2022 đạt 13,6 tỷ đồng, giảm 10,9% so với cùng kỳ năm 2021. Nếu tính cả 706,7 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 11,8 nghìn doanh nghiệp tăng vốn, tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 3 tháng đầu năm 2022 là 1.177,9 nghìn tỷ đồng, tăng 21% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, còn có 25,6 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (tăng 73,6% so với cùng kỳ năm 2021), nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 3 tháng đầu năm 2022 lên 60,2 nghìn doanh nghiệp, tăng 36,7% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân một tháng có 20 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động[5].
Cũng trong 3 tháng đầu năm 2022, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn 35,7 nghìn doanh nghiệp, tăng 49,7% so với cùng kỳ năm trước; 11,3 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 0,1%; hơn 4,3 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 16,7%, trong đó có 3,8 nghìn doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, giảm 19,7%; 63 doanh nghiệp có quy mô vốn trên 100 tỷ đồng, tăng 28,6%. Bình quân một tháng có 17,1 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường[6].
b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý I năm 2022 cho thấy: Có 28,4% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý IV năm 2021; 35,8% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 35,8% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn[7]. Dự kiến quý II năm 2022, có 50% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý I năm 2022; 32,3% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 17,7% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn.
5. Tháng Ba, hoạt động thương mại và dịch vụ khá sôi động; số lượt khách quốc tế đến Việt Nam tăng mạnh do nước ta đã mở cửa du lịch và nhiều đường bay quốc tế được khôi phục trở lại; hoạt động vận tải hàng hóa ghi nhận mức tăng tích cực nhưng vận tải hành khách còn gặp nhiều khó khăn khi nhu cầu đi lại của người dân giảm so với dịp Tết Nguyên đán cùng với dịch Covid-19 vẫn tiếp tục lây, lan mạnh trong cộng đồng.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Ba năm 2022 ước đạt 438 nghìn tỷ đồng, tăng 2,9% so với tháng trước và tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 1.318 nghìn tỷ đồng, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 1,6% (cùng kỳ năm 2021 tăng 2%).
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Nghìn tỷ đồng
Ước tính
tháng 3 năm 2022 |
Ước tính
quý I năm 2022 |
Tốc độ tăng/giảm so với
cùng kỳ năm trước (%) |
||||
Tháng 3
năm 2022 |
Quý I
năm 2022 |
|||||
Tổng số | 438,0 | 1.318,0 | 9,4 | 4,4 | ||
Bán lẻ hàng hóa | 352,0 | 1.062,2 | 10,7 | 5,8 | ||
Dịch vụ lưu trú, ăn uống | 41,5 | 124,4 | 5,9 | 1,2 | ||
Du lịch lữ hành | 1,1 | 3,1 | 29,9 | 1,9 | ||
Dịch vụ khác | 43,4 | 128,3 | 3,2 | -2,5 | ||
Vận tải hành khách quý I năm 2022 đạt 740,8 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 23,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2021 giảm 15,5%) và luân chuyển 34,8 tỷ lượt khách.km, giảm 15,8% (cùng kỳ năm trước giảm 22,5%). Vận tải hàng hóa quý I đạt 501,8 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2021 tăng 8,2%) và luân chuyển 94,3 tỷ tấn.km, tăng 8,8% (cùng kỳ năm trước tăng 5,1%).
Doanh thu hoạt động viễn thông quý I năm 2022 ước đạt 83,8 nghìn tỷ đồng, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 4,6%). Tổng số thuê bao điện thoại tại thời điểm cuối tháng 3/2022 ước đạt 127,2 triệu thuê bao, giảm 0,8% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó số thuê bao di động là 124,1 triệu thuê bao, giảm 0,6%; số thuê bao truy nhập internet băng rộng cố định ước đạt 19,8 triệu thuê bao, tăng 13,2%.
Khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng Ba đạt 41,7 nghìn lượt người, tăng 41,4% so với tháng trước và gấp 2,2 lần cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2022, khách quốc tế đến nước ta ước đạt gần 91 nghìn lượt người, tăng 89,1% so với cùng kỳ năm trước[8]. Trong đó, khách đến bằng đường hàng không đạt 82,3 nghìn lượt người, chiếm gần 90,5% lượng khách quốc tế đến Việt Nam, tăng 165,2%; bằng đường bộ đạt 8,6 nghìn lượt người, chiếm 9,5% và giảm 49,1%; bằng đường biển đạt 36 lượt người, chiếm 0,04% và giảm 72,1%.
6. Quý I năm 2022, trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục giữ nguyên mức lãi suất điều hành, tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng tiếp tục giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm tăng trưởng ổn định; thị trường chứng khoán có nhiều triển vọng tích cực với mức vốn hóa thị trường cổ phiếu ước tính tăng 28% so với cùng kỳ năm trước.
Tính đến thời điểm 21/3/2022, tổng phương tiện thanh toán tăng 2,49% so với cuối năm 2021 (cùng thời điểm năm 2021 tăng 1,49%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 2,15% (cùng thời điểm năm 2021 tăng 0,54%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 4,03% (cùng thời điểm năm 2021 tăng 1,47%).
Doanh thu phí toàn thị trường bảo hiểm quý I năm 2022 ước tính tăng 13% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu phí bảo hiểm lĩnh vực nhân thọ tăng 15%, lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ tăng 9%.
Trên thị trường cổ phiếu, tính đến ngày 25/3/2022, chỉ số VNIndex đạt 1.498,5 điểm, tăng 0,5% so với thời điểm ngày 31/12/2021. Đến ngày 14/3/2022 mức vốn hóa thị trường đạt 7.628,6 nghìn tỷ đồng, tăng 28% so với cùng thời điểm năm 2021. Tính từ đầu năm đến nay, giá trị giao dịch đạt 31.409 tỷ đồng/phiên, tăng 18,1% so với bình quân năm trước. Thị trường cổ phiếu hiện có 768 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết; 882 cổ phiếu đăng ký giao dịch trên sàn UPCoM với tổng giá trị niêm yết và đăng ký giao dịch đạt 1.777 nghìn tỷ đồng, tăng 2,2% so với cuối năm 2021.
Trên thị trường trái phiếu, giá trị giao dịch bình quân trong tháng 3/2022 đạt 11.217 tỷ đồng/phiên, giảm 20,2% so với tháng trước. Tính chung quý I năm 2022 giá trị giao dịch bình quân đạt 13.149 tỷ đồng/phiên, tăng 15,3% so với bình quân năm 2021. Thị trường trái phiếu hiện có 424 mã trái phiếu niêm yết với giá trị niêm yết đạt hơn 1.606 nghìn tỷ đồng, tăng 2% so với cuối năm 2021.
Trên thị trường chứng khoán phái sinh, tính từ đầu năm đến nay, khối lượng giao dịch bình quân của sản phẩm hợp đồng tương lai trên chỉ số VN30 đạt 139.076 hợp đồng/phiên, giảm 26% so với bình quân năm trước; giá trị giao dịch bình quân sản phẩm chứng quyền có bảo đảm đạt 38,42 tỷ đồng/phiên, giảm 46%.
7. Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội trong quý I năm 2022 tăng trưởng tích cực, trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam đạt mức cao nhất so với quý I của các năm 2018-2022, cho thấy tín hiệu tích cực trong việc huy động và sử dụng vốn đầu tư, đây là động lực quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế năm 2022.
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I năm 2022 theo giá hiện hành ước đạt 562,2 nghìn tỷ đồng, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước ước đạt 136,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 24,3% tổng vốn đầu tư và tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 323,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 57,5%, tăng 9,1%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 102,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 18,2% và tăng 7,9%.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam[9] tính đến ngày 20/3/2022 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 8,91 tỷ USD, giảm 12,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 341 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị góp vốn là 819,7 triệu USD và 393 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 811,4 triệu USD.
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến 20/3 hằng năm
Tỷ USD
2018 | 2019 | 2020 | 2021 | 2022 | |
Vốn đăng ký | 5,8 | 10,81 | 8,55 | 10,13 | 8,91 |
Đăng ký cấp mới | 2,12 | 3,82 | 5,53 | 7,22 | 3,21 |
Đăng ký điều chỉnh | 1,79 | 1,30 | 1,07 | 2,10 | 4,06 |
Góp vốn, mua cổ phần | 1,89 | 5,69 | 1,96 | 0,81 | 1,63 |
Vốn thực hiện | 3,88 | 4,12 | 3,90 | 4,10 | 4,4 |
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 3 tháng đầu năm 2022 có 24 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 180,2 triệu USD, tăng 28,5% so với cùng kỳ năm trước; có 03 lượt dự án điều chỉnh vốn tăng 31,2 triệu USD, giảm 92,8%. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt 211,5 triệu USD, giảm 63% so với cùng kỳ năm trước.
8. Thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/3/2022 đạt 25,5% dự toán năm. Chi ngân sách Nhà nước đạt 15,6% dự toán năm, đảm bảo các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn cũng như chi trả kịp thời cho các đối tượng theo quy định.
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/3/2022 đạt 359,9 nghìn tỷ đồng, bằng 25,5% dự toán năm, trong đó: Thu nội địa đạt gần 289 nghìn tỷ đồng, bằng 24,6%; thu từ dầu thô đạt 10,7 nghìn tỷ đồng, bằng 37,8%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 60,3 nghìn tỷ đồng, bằng 30,3%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/3/2022 đạt 278,8 nghìn tỷ đồng, bằng 15,6% dự toán năm, trong đó: Chi thường xuyên đạt 205 nghìn tỷ đồng, bằng 18,4%; chi đầu tư phát triển 47,4 nghìn tỷ đồng, bằng 9%; chi trả nợ lãi 26,2 nghìn tỷ đồng, bằng 25,3%.
9. Trong tháng 3/2022, hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa hồi phục mạnh mẽ với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 66,73 tỷ USD, tăng 36,8% so với tháng trước và tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 176,35 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 12,9%; nhập khẩu tăng 15,9%.
a) Xuất nhập khẩu hàng hóa[10]
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 3/2022 ước đạt 34,06 tỷ USD, tăng 45,5% so với tháng trước. Tính chung quý I năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 88,58 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 23,27 tỷ USD, tăng 22%, chiếm 26,3% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 65,31 tỷ USD, tăng 10%, chiếm 73,7%. Trong quý I năm 2022 có 15 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 80% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 5 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 58%).
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 3/2022 ước đạt 32,67 tỷ USD, tăng 28,7% so với tháng trước. Tính chung quý I năm 2022, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 87,77 tỷ USD, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 29,43 tỷ USD, tăng 13,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 58,34 tỷ USD, tăng 17,1%. Trong quý I năm 2022 có 16 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 76,1% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Hai nhập siêu 1,96 tỷ USD[11]; 2 tháng nhập siêu 581 triệu USD; tháng Ba ước tính xuất siêu 1,39 tỷ USD. Tính chung quý I năm 2022, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 809 triệu USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 2,76 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 6,16 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 6,97 tỷ USD.
b) Xuất, nhập khẩu dịch vụ
Trong quý I/2022, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 1,05 tỷ USD, tăng 19,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ du lịch đạt 77 triệu USD (chiếm 7,3% tổng kim ngạch), tăng 75%; dịch vụ vận tải đạt 140 triệu USD (chiếm 13,4%), tăng 97,2%.
Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ quý I năm nay ước đạt 5,18 tỷ USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ vận tải đạt 2,6 tỷ USD (chiếm 49,4% tổng kim ngạch), tăng 11,3%; dịch vụ du lịch đạt 1,1 tỷ USD (chiếm 20,3%), tăng 16,7%.
Nhập siêu dịch vụ quý I năm 2022 là 4,13 tỷ USD (trong đó phí dịch vụ vận tải và bảo hiểm hàng hóa nhập khẩu là 2,1 tỷ USD).
10. Giá xăng dầu, giá gas tăng theo giá nhiên liệu thế giới; giá nhà ở thuê tăng trở lại sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát; giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thiết yếu tăng theo giá nguyên liệu đầu vào và giá xăng dầu là nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2022 tăng 0,7% so với tháng trước, tăng 1,91% so với tháng 12/2021 và tăng 2,41% so với cùng kỳ năm 2021. Tính chung quý I/2022, CPI tăng 1,92% so với cùng kỳ năm trước, lạm phát cơ bản tăng 0,81%. Do chịu ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị trên thế giới, cùng với đà phục hồi kinh tế tại nhiều quốc gia và trong nước, chỉ số giá sản xuất, chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất, chỉ số giá xuất khẩu, nhập khẩu quý I năm 2022 đều tăng so với cùng kỳ năm 2021.
a) Chỉ số giá tiêu dùng
Trong mức tăng 0,7% của CPI tháng 3/2022 so với tháng trước có 10 nhóm hàng tăng giá so với tháng trước; riêng nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm giá, trong đó nhóm giao thông có mức tăng cao nhất với 4,8%. CPI bình quân quý I năm 2022 so với cùng kỳ năm 2021 tăng 1,92%; CPI tháng 3/2022 tăng 1,91% so với tháng 12/2021 và tăng 2,41% so với cùng kỳ năm 2021. Lạm phát cơ bản quý I/2022 tăng 0,81% so với bình quân cùng kỳ năm 2021, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 1,92%), điều này phản ánh biến động giá tiêu dùng chủ yếu do giá lương thực, xăng, dầu và gas tăng.
b) Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Giá vàng trong nước biến động tăng cùng chiều với giá vàng thế giới khi lạm phát các quốc gia tăng cao và ảnh hưởng của chiến tranh giữa Nga – U-crai-na. Chỉ số giá vàng tháng 3/2022 tăng 4,51% so với tháng trước; tăng 9,36% so với cùng kỳ năm trước; bình quân quý I năm 2022, chỉ số giá vàng trong nước tăng 3,52%.
Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 3/2022 tăng 0,64% so với tháng trước; giảm 0,43% so với cùng kỳ năm trước; bình quân quý I năm 2022, chỉ số giá đô la Mỹ trong nước giảm 0,67%.
c) Chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá xuất, nhập khẩu
Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I năm 2022 tăng 1,89% so với quý trước và tăng 0,58% so với cùng kỳ năm trước; tương tự, chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp tăng 1,09% và tăng 4,39%; chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng 0,79% và tăng 1,98%.
Chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất quý I năm 2022 tăng 1,49% so với quý trước và tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,21% và tăng 9,1%; dùng cho sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,47% và tăng 5,52%; dùng cho xây dựng tăng 1,67% và tăng 8,26%.
Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa quý I năm 2022 tăng 2,47% so với quý trước và tăng 7,51% so với cùng kỳ năm trước; tương tự, chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá tăng 2,7% và tăng 10,98%. Tỷ giá thương mại hàng hóa[12] quý I năm 2022 giảm 0,23% so với quý trước và giảm 3,13% so với cùng kỳ năm trước.
II. TÌNH HÌNH XÃ HỘI
1. Chính sách thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19 giúp cho thị trường lao động quý I năm 2022 có nhiều tín hiệu khởi sắc. Lực lượng lao động, số người có việc làm và thu nhập bình quân tháng của người lao động tăng so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động đều giảm so với quý trước, tuy vẫn cao hơn so với cùng kỳ năm trước nhưng mức độ giảm dần.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý I năm 2022 ước tính là 51,2 triệu người, tăng 441,1 nghìn người so với quý trước và tăng 158,9 nghìn người so với cùng kỳ năm 2021; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động đạt 68,1%, tăng 0,4 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; lao động 15 tuổi trở lên có việc làm ước tính là 50 triệu người, tăng 132,2 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động của cả nước quý I năm 2022 ước tính là 2,46%, trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 2,88%; khu vực nông thôn là 2,19%.
Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động của cả nước quý I năm 2022 ước tính là 3,01%, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 2,39%; khu vực nông thôn là 3,40%.
2. Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội được chính quyền các cấp quan tâm thực hiện; chương trình xây dựng nông thôn mới trong những năm qua có tác động tích cực, góp phần nâng cao đời sống người dân khu vực nông thôn, đẩy mạnh phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội khu vực nông thôn.
Trong quý I, giá trị quà tặng cho các đối tượng bảo trợ xã hội từ nguồn ngân sách và xã hội hóa là gần 1 nghìn tỷ đồng; trị giá tiền, quà thăm hỏi và các hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo là gần 1,3 nghìn tỷ đồng; trị giá tiền và quà cho các đối tượng ưu đãi là người có công, thân nhân người có công với cách mạng là gần 2,1 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ tình hình đột biến, bất thường (thiên tai, bão lũ…) phát sinh tại địa phương gần 1,9 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, có hơn 25,5 triệu thẻ BHYT/sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí được phát, tặng cho các đối tượng chính sách trên địa bàn cả nước. Bên cạnh đó, các gói hỗ trợ do ảnh hưởng dịch Covid-19 tiếp tục được thực hiện[13]. Ngoài ra, để đảm bảo người dân không bị ảnh hưởng do thiếu đói giáp hạt, ngày 15/3/2022 Chính phủ ra Quyết định số 340/QĐ-TTg cấp xuất 1.006,6 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho tỉnh Sơn La và Điện Biên.
Tính đến ngày 28/02/2022, cả nước có 5.650/8.233 xã (68,6%) đạt chuẩn nông thôn mới; có 561 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; có 221/664 đơn vị cấp huyện thuộc 54 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ nông thôn mới; có14 tỉnh đạt 100% số xã chuẩn nông thôn mới.
3. Trước những diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, ngành Giáo dục đã triển khai nhiều giải pháp nhằm hướng dẫn địa phương tổ chức dạy học linh hoạt phù hợp với tình hình thực tế với phương châm “Tạm dừng đến trường nhưng không dừng học”. Đến nay, nhiều địa phương đủ điều kiện phòng chống dịch đã đón học sinh trở lại trường học tập trực tiếp và đã tổ chức dạy học 2 buổi/ngày.
Theo Bộ Lao động – Thương Binh và Xã hội, kế hoạch tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp năm 2022 là 2.086 nghìn người. Trong đó, trình độ cao đẳng, trung cấp đạt 530 nghìn người; trình độ sơ cấp và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác đạt 1.556 nghìn người. Ước tính tuyển sinh 3 tháng đầu năm 2022 đạt hơn 11.000 người. Công tác rà soát, sắp xếp các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập thuộc bộ, ngành, địa phương tiếp tục được thực hiện. Ước tính năm 2022 có khoảng 1.877 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trong đó 409 trường cao đẳng; 438 trường trung cấp; 1.030 trung tâm giáo dục nghề nghiệp. Tổng số cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập là 1.184 cơ sở, giảm 4% so với năm 2021.
4. Dịch Covid-19 trên thế giới vẫn diễn biến phức tạp[14]. Tại Việt Nam, số ca mắc tiếp tục tăng nhanh tại hầu hết các tỉnh, thành phố chủ yếu do biến thể BA.2 của biến chủng Omicron, tuy nhiên với tỷ lệ bao phủ vắc xin cao trên phạm vi toàn quốc, đặc biệt quan tâm chăm sóc đối tượng nguy cơ cao nên số ca chuyển nặng giảm và tỷ lệ tử vong trên số ca mắc giảm sâu[15].
Tính chung 3 tháng đầu năm 2022, cả nước có 9.919 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (02 trường hợp tử vong); 406 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 28 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút; 01 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu và 07 trường hợp sốt phát ban nghi sởi.
Việt Nam hiện là một trong 6 quốc gia có tỷ lệ bao phủ vắc xin phòng Covid-19 cao nhất trên thế giới. Tính đến ngày 25/3/2022, tổng số liều vắc xin phòng Covid-19 đã được tiêm là 204.566 nghìn liều, trong đó tiêm mũi 1 là 79.974,2 nghìn liều; tiêm mũi 2 là 76.301 nghìn liều; tiêm mũi 3 (tiêm bổ sung, tiêm nhắc và mũi 3 liều cơ bản) là 48.290,8 nghìn liều.
Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 18/3/2022 là 215.062 người và số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 111.300 người.
Về ngộ độc thực phẩm, trong tháng Ba xảy ra 02 vụ với 81 người bị ngộ độc. Tính chung 3 tháng đầu năm 2022, cả nước xảy ra 04 vụ với 91 người bị ngộ độc.
5. Công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa được quan tâm và thực hiện. Các phong trào tập luyện thể dục thể thao được tổ chức rộng khắp, nhiều phong trào thể thao quần chúng được phát động.
Một số hoạt động văn hóa nổi bật đã được thực hiện trong quý I năm 2022 như: Chương trình phối hợp giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Giáo dục và Đào tạo trong công tác giáo dục truyền thống cho học sinh, sinh viên thông qua di sản văn hóa giai đoạn 2021-2026; Quyết định ghi danh di sản văn hóa phi vật thể Lễ hội Từ Lương Sâm (Hải Phòng) vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; hoàn thiện hồ sơ quốc gia Lễ hội Vía Bà chúa Xứ Núi Sam (An Giang) đệ trình UNESCO ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Các phong trào tập luyện thể dục thể thao được tổ chức rộng khắp, có thể kể đến cuộc thi Marathon quốc tế Đà Nẵng 2022 (DNIM 2022) diễn ra vào ngày 20/3/2022 với sự tham gia của gần 5.000 vận động viên, người dân, du khách trong nước và quốc tế; giải chạy dành cho học sinh, sinh viên S-RACE 2022 được phát động và sẽ được tổ chức vào cuối tháng 3/2022 với khoảng 20.000 vận động viên tham gia.
Về thể thao thành tích cao của Việt Nam, chủ yếu tập trung chuẩn bị lực lượng tham dự SEA Games 31 tại Việt Nam, ASIAD 19 tại Trung Quốc. Công tác tổ chức chuẩn bị cho SEA Games 31 cơ bản đã hoàn thành từ khâu đăng ký, hậu cần và các công việc khác liên quan đến Đại hội.
6. Tai nạn giao thông[16] tháng 3/2022 giảm cả trên 3 tiêu chí (số vụ, số người chết, số người bị thương) so với tháng trước. Tính chung 3 tháng đầu năm, số vụ tai nạn giao thông giảm so với cùng kỳ năm trước nhưng số người chết tăng.
Trong tháng (từ 15/2 đến 14/3), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 788 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 556 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 232 vụ va chạm giao thông, làm 491 người chết, 252 người bị thương và 229 người bị thương nhẹ. So với tháng trước, số vụ tai nạn giao thông tháng Ba giảm 22,1% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 23,1% và số vụ va chạm giao thông giảm 19,4%); số người chết giảm 20,8%; số người bị thương giảm 29,8% và số người bị thương nhẹ giảm 24,2%. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tháng Ba giảm 7,4% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 2,6% và số vụ va chạm giao thông giảm 17,1%); số người chết tăng 11,1%; số người bị thương giảm 26,3% và số người bị thương nhẹ giảm 22,6%.
Tính chung quý I năm 2022, trên địa bàn cả nước xảy ra 2.762 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 1.966 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 796 vụ va chạm giao thông, làm 1.676 người chết, 947 người bị thương và 794 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 3 tháng đầu năm 2022 giảm 13,8% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 5,2%; số vụ va chạm giao thông giảm 29,7%); số người chết tăng 0,2%; số người bị thương giảm 15,6% và số người bị thương nhẹ giảm 37,2%. Bình quân 1 ngày trong 3 tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước xảy ra 31 vụ tai nạn giao thông, gồm 22 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 09 vụ va chạm giao thông, làm 19 người chết, 11 người bị thương và 09 người bị thương nhẹ.
7. Thiên tai, ô nhiễm môi trường và cháy, nổ ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của người dân ở một số địa phương.
Trong 3 tháng đầu năm, thiên tai làm 03 người chết và mất tích; 01 người bị thương; 38,6 nghìn ha lúa và 4,1 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; gần 12,2 nghìn con gia súc và gia cầm bị chết; gần 1,5 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và bị hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong quý I năm 2022 ước tính hơn 832,5 tỷ đồng, gấp 19,6 lần so với cùng kỳ năm trước.
Cũng trong 3 tháng đầu năm, cơ quan chức năng đã phát hiện 6.068 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 5.139 vụ với tổng số tiền phạt 65,8 tỷ đồng; cả nước xảy ra 446 vụ cháy, nổ, làm 23 người chết và 30 người bị thương, tài sản thiệt hại ước tính là 56,7 tỷ đồng./.
TỔNG CỤC THỐNG KÊ
[1] Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế nhận định tăng trưởng toàn cầu có thể giảm hơn 1 điểm phần trăm trong năm 2022, so với mức dự báo 4,5% đưa ra vào tháng 12/2021. Tổ chức Fitch Rating điều chỉnh giảm 0,7 điểm phần trăm, dự báo tăng trưởng GDP thế giới năm 2022 xuống còn 3,5%. Tại thời điểm tháng 01/2022, Ngân hàng Thế giới dự báo mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ đạt 4,1% năm 2022 trong khi con số này của Quỹ Tiền tệ Quốc tế là 4,4%.
[2] Tháng 01/2022, giá cá tra nguyên liệu loại 0,9 kg/con tại các tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ dao động ở mức 23,5-24 nghìn đồng/kg, tăng 3,5-4,0 nghìn đồng so với thời điểm cùng kỳ năm trước. Mức giá này được duy trì đến đầu tháng Hai. Trung tuần tháng Hai, giá cá tra lên mức 26-28 nghìn đồng/kg và tuần đầu tháng Ba đạt mức 32 nghìn đồng/kg[2]. (Nguồn: http://agromonitor.vn/group/48/280/giam-sat-gia)
[3] Giá tôm thẻ chân trắng loại 100 con/kg và loại 70 con/kg có xu hướng tăng từ trung tuần tháng Một đến đầu tháng Ba nhưng vẫn chưa cao bằng mức giá hai tuần đầu năm. Tính đến đầu tháng Ba năm 2021, giá tôm thẻ chân trắng ở Tây Nam Bộ, loại 100 con/kg ở mức 95,5 nghìn đồng/kg, loại 70 con/kg ở mức 117,5 nghìn đồng/kg (nguồn: http://agromonitor.vn/group/47/272/giam-sat-gia).
[4] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngày 24/3/2022.
[5] Số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động bình quân một tháng trong quý I các năm 2017- 2021 lần lượt là: 11,9 nghìn doanh nghiệp; 11,7 nghìn doanh nghiệp; 14,5 nghìn doanh nghiệp; 14,8 nghìn doanh nghiệp; 14,7 nghìn doanh nghiệp.
[6] Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường bình quân một tháng trong quý I các năm 2017- 2021 lần lượt là: 8 nghìn doanh nghiệp; 7,9 nghìn doanh nghiệp; 11,4 nghìn doanh nghiệp; 11,6 nghìn doanh nghiệp; 13,4 nghìn doanh nghiệp.
[7] Chỉ số tương ứng của quý IV năm 2021: Có 44% số doanh nghiệp đánh giá tốt hơn quý trước; 31,1% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 24,9% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn.
[8] Khách đến từ châu Á đạt 58,5 nghìn lượt người, chiếm 64,3% tổng số khách quốc tế đến nước ta, tăng 37,3% so với cùng kỳ năm trước. Khách đến từ châu Âu đạt 16,6 nghìn lượt người, tăng 360,3%; khách đến từ châu Mỹ đạt 12,3 nghìn lượt người, tăng 874,2%; khách đến từ châu Úc đạt 3,1 nghìn lượt người, tăng 857,2%; khách đến từ châu Phi đạt 449 lượt người, tăng 48,2%.
[9] Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhận ngày 22/3/2022.
[10] Ước tính tổng trị giá xuất khẩu, nhập khẩu tháng 3/2022 do Tổng cục Hải quan cung cấp ngày 28/3/2022. Tổng cục Thống kê ước tính trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu tháng 3/2022 dựa trên số liệu sơ bộ về trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu đến hết ngày 15/3/2022 do Tổng cục Hải quan cung cấp.
[11] Ước tính tháng Hai nhập siêu 2,34 tỷ USD.
[12] Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.
[13] Tính đến ngày 22/3/2022, gói hỗ trợ theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 và Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 8/10/2021 của Chính phủ đạt gần 40,6 nghìn tỷ đồng hỗ trợ cho 35,6 triệu lượt người lao động và 378,9 nghìn đơn vị sử dụng lao động/hộ kinh doanh; gói hỗ trợ theo Nghị quyết số 116/NQ-CP ngày 24/9/2021 của Chính phủ đạt gần 38,6 nghìn tỷ đồng hỗ trợ cho trên 13 triệu lượt lao động và 363,6 nghìn đơn vị/hộ kinh doanh sử dụng lao động.
[14] Tính đến 16 giờ ngày 27/3/2022 trên thế giới có 481.364,2 nghìn trường hợp mắc Covid-19 (6.146,5 nghìn trường hợp tử vong).
[15] Tính đến 16 giờ ngày 27/02/2022, Việt Nam có 9.011,5 nghìn trường hợp mắc, trong đó 5.352 nghìn trường hợp đã được chữa khỏi và hơn 42,3 nghìn trường hợp tử vong.
[16] Theo báo cáo nhanh từ Văn phòng Bộ Công an và Cục Hàng hải Việt Nam (Bộ Giao thông vận tải) từ ngày 15/02/2022 đến ngày 14/3/2022.